LỜI GIỚI THIỆU
Ninh An là xã nằm ở cực Bắc của huyện Ninh Hòa, là địa bàn quan trọng trong các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Gần nửa thế kỷ đấu tranh cách mạng (1930 – 1975), mảnh đất Ninh An đã ghi dấu những đau thương mất mát cũng như những chiến công oanh liệt. Những sự kiện gắn liền với từng ngọn núi, dòng sông, gộp đá, mảnh vườn, từng ngôi nhà và sống mãi trong ký ức, tâm hồn của những chiến sĩ cách mạng và người dân Ninh An. Đó cũng là động lực để người dân Ninh An sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong công cuộc xây dựng quê hương sau ngày giải phóng.
Nhận thức rõ giá trị thiêng liêng và vô cùng quý giá của chặng đường lịch sử đấu tranh giải phóng và xây dựng mảnh đất quê hương, Ban chấp hành Đảng bộ và Ủy ban nhân dân xã đã tổ chức biên soạn cuốn sách “Lịch sử cách mạng xã Ninh An giai đoạn 1930 - 2010”. Tập sách ghi lại quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường, bất khuất và nỗ lực to lớn của cán bộ, đảng viên và nhân dân Ninh An trong các cuộc kháng chiến trường kỳ chống ngoại xâm cũng như xây dựng quê hương sau này. Qua đó giúp các thế hệ cán bộ, đảng viên và nhân dân Ninh An ghi nhớ những chiến công hào hùng, công ơn to lớn của những người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của dân tộc trên mảnh đất quê hương. Đồng thời, cuốn sách sẽ góp phần giáo dục truyền thống tốt đẹp của quê hương và cổ vũ đồng chí, đồng bào xã nhà trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh, thỏa long nguyện ước của ông cha đã hy sinh vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của người dân Ninh An hôm nay và mai sau.
Lịch sử hình thành
Năm Quý Tỵ (1653), bờ cõi xứ Đàng trong được mở rộng đến bờ bắc sông Phan Rang (Tỉnh Ninh Thuận ngày nay), được đặt tên là Dinh Thái Khang. Dinh Thái Khang gồm 2 phủ: Thái Khang và Diên Ninh. Phủ Thái Khang quản lý 2 huyện là Quảng Phước và Tân Định (huyện Vạn Ninh và huyện Ninh Hòa ngày nay). Nhiều nhóm dân ở các tỉnh phía Bắc miền Trung (nhiều nhất là Quãng Ngãi) lần lượt vào vùng đất mới sinh cơ lập nghiệp, khai khẩn đất hoang, lập làng, hình thành nên những vùng dân cư phát triển.
Năm Canh Ngọ (1690), phủ Thái Khang đổi tên thành phủ Bình Khang và năm Nhâm Tuất (1742) phủ Diên Ninh đổi tên thành phủ Diên Khánh. Năm 1744, dinh Thái Khang đổi tên thành dinh Bình Khang. Năm 1803, dinh Bình Khang được đặt tên lại là dinh Bình Hòa và phủ Bình Khang cũng đổi thành phủ Bình Hòa. Đến năm 1808 (năm Gia Long thứ 7), dinh Bình Hòa đổi lại thành trấn Bình Hòa cai quản 2 phủ là Diên Khánh và Bình Hòa. Năm Tân mão (1831), phủ Bình Hòa một lần nữa lại đổi tên thành phủ Ninh Hòa.
Năm Nhâm Thìn (1832- triều vua Minh Mạng) đã cho đổi trấn thành tỉnh. Do vậy, trấn Bình Hòa trở thành tỉnh Khánh Hòa, có 2 phủ gồm 4 huyện: Phủ Diên Khánh có 2 huyện là Vĩnh Xương và Phước Điền, phủ Ninh Hòa có 2 huyện là Tân Định và Quảng Phước, tỉnh lỵ đặt tại thành Diên Khánh. Đến triều vua Duy Tân đã có sự điều chỉnh địa giới, một phần đất huyện Vĩnh Xương được cắt ra để thành lập huyện Cam Lâm. Thời kỳ này, tỉnh Khánh Hòa có 2 phủ là Diên Khánh và Ninh Hòa và 3 huyện là Cam Lâm, Vĩnh Xương và Tân Định.
Ninh An thời nhà Nguyễn thuộc huyện Quảng Phước với những làng được hình thành lâu đời như Ngọc Sơn, Quảng Thiện (thôn Hòa Thiện ngày nay). Vào những năm 1930-1931, chính quyền thực dân Pháp sát nhập huyện Tân Định và 3 tổng của huyện Quảng Phước cũ thành phủ Ninh Hòa. Phần còn lại của huyện Quảng Phước lấy tên là huyện Vạn Ninh. Thời kỳ này, Ninh An thuộc tổng Phước Thiện (huyện Vạn Ninh). Năm 1949, chính quyền tay sai Pháp cho đổi phủ, huyện thành quận (đơn vị tổng và làng vẫn giữ nguyên).Về phía chính quyền cách mạng, năm 1951, cùng với việc xây dựng căn cứ Đá Bàn, 2 huyện Vạn Ninh và Ninh Hòa hợp nhất thành Liên huyện Bắc Khánh. Đến tháng 3/1953, huyện Bắc Khánh lại được tách ra thành 4 vùng: vùng Đông, vùng Tây, vùng Nam, vùng Bắc. Vùng Tây với tên gọi là Hòa Trí, Ninh Phước dưới sự quản lý của Ban cán sự vùng Tây cho đến ngày thực hiện hiệp định Giơ ne vơ tháng 7/1954. Vùng đất Ninh An lúc này có tên là Phước Trung thuộc Ninh Phước (gồm Phước Đông, Phước Trung và Phước Tây).
Đến những năm 1955-1956, ngụy quyền Sài Gòn sát nhập tổng Phước Thiện (gồm các làng của xã Ninh Thọ, Ninh An, Ninh Trung ngày nay) vào quận Ninh Hòa, lập ra các xã, định lại ranh giới xã, quận. Làng Xuân Vinh, Hà Già tách ra thuộc quận Vạn Ninh, làng Ngọc Sơn chuyển sang thuộc xã Ninh An thuộc quận Ninh Hòa.
Đến nay, xã Ninh An là một trong 27 đơn vị hành chính thuộc thị xã Ninh Hòa, gồm có 8 thôn: Sơn Lộc, Ngọc Sơn, Gia Mỹ, Lạc Hòa, Phú Gia, Ninh Ích, Hòa Thiện 1, Hòa Thiện 2. Nhân dân Ninh An vốn cần cù và sáng tạo, giàu truyền thống cách mạng. Trong quá trình phát triển, cùng với cả nước, nhân dân Ninh An luôn bền bỉ đấu tranh, lao động, đóng góp sức người sức của góp phần giải phóng và xây dựng quê hương đất nước.
Địa giới hành chính và điều kiện tự nhiên
Ninh An là xã đồng bằng, nằm về phía Bắc thị xã Ninh Hòa, cách trung tâm thị xã Ninh Hòa 06 km. Có đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 1A ngang qua địa phận của xã và những trục lộ giao thông quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, xã hội của địa phương như: Tỉnh lộ 2 ở phía Nam theo hướng Đông- Bắc đi về các xã vùng biển và Tỉnh lộ 7 ở phía Bắc theo hướng Tây đi lên các xã miền núi.
Ranh giới hành chính xã được xác định như sau:
- Phía Đông giáp xã Ninh Thọ;
- Phía Tây giáp các xã Ninh Sơn, Ninh Trung, Ninh Thượng;
- Phía Nam giáp phường Ninh Đa và xã Ninh Đông;
- Phía Bắc giáp xã Vạn Hưng (huyện Vạn Ninh)
Xã Ninh An có địa hình thấp dần theo hướng Tây, Tây Bắc về phía Đông Nam. Phía Tây có các núi Hòn Miễu, Hòn Thượng, phía Bắc có núi Hòn Hấu. Địa hình không bằng phẳng vì nằm về hướng Đông núi Đá Bàn do vậy về mùa mưa nước dồn về tạo nhiều suối và thường bị ngập nước ở những vùng thấp, nhưng lại bị khô hạn về mùa khô. Ở những vùng đất cao không có kênh tưới.
Theo phân vùng khí hậu tỉnh Khánh Hòa, xã Ninh An nằm trong tiểu vùng khí hậu II-3, vùng đồng bằng ven biển với nét đặc trưng là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, chiếm 74,8% tổng lượng mưa trong năm. Mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8, có mưa dông từ tháng 4 đến tháng 5. Nhiệt độ không khí trung bình năm là 26,60C. Nhiệt độ tối đa là 38,50C, nhiệt độ tối thiểu là 14,60C. Số giờ nắng bình quân năm là 2.482 giờ. Độ ẩm trung bình trong năm là 80%. Hướng gió chủ yếu là gió Đông Nam và gió Nam.
Tổng diện tích tự nhiên toàn xã là 3.971,66 ha. Trong đó, đất chuyên dùng là 263,32ha, đất chưa sử dụng là 686,37ha, đất nông nghiệp là 2875,4ha, đất phi nông nghiệp là 409,89ha, đất lâm nghiệp 252,81ha, diện tích đất ở là 61,58ha.
Tài nguyên thiên nhiên xã Ninh An rất đa dạng. Tổng diện tích rừng là 578,8 ha (Số liệu kiểm kê đất rừng của xí nghiệp trắc địa bản đồ 202 ngày 4/11/2007). Hầu hết là rừng đã giao cho hộ gia đình quản lý và khai thác. Đất đai có nhiều loại như: đất phù sa, đất nâu vàng, đất xám, đất đỏ vàng… thích hợp cho trồng màu, trồng lúa, cây ăn quả; đất đồi núi thích hợp trồng rừng và cây lâu năm. Ngoài ra, xã còn có một diện tích lớn đất nhiễm mặn, phần nhiều là đất hoang hóa.
Nguồn nước tưới tiêu để sản xuất và sinh hoạt của xã do hệ thống thủy nông Đá Bàn cung cấp (Trước đây Đá Bàn thuộc xã Ninh An, nay thuộc xã Ninh Sơn do xã Ninh An được tách ra thành 2 xã Ninh An và Ninh Sơn vào năm 1999). Các tuyến kênh chính Đông, chính Tây đều bắt đầu từ xã Ninh Sơn chảy xuống. Nguồn nước này góp phần chính trong việc sản xuất lúa, hoa màu, phát triển chăn nuôi và giải quyết nước sinh hoạt nhất là vùng nhiễm mặn, nhiễm phèn, góp phần điều chỉnh cơ cấu mùa vụ, cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Diện tích nuôi trồng thủy sản không đáng kể, chủ yếu với diện tích nhỏ và nằm trong khuôn viên hộ gia đình. Số kênh mương hiện có là 85km, trong đó, đã được kiên cố hóa là 32km.
Dân cư
Năm 1935, vua Bảo Đại mở Dinh điền Lạc Thọ (Hòa Huỳnh) đưa phần lớn dân Quảng Ngãi và một số địa phương khác vào tìm đất khai phá, lập làng. Những cư dân đầu tiên này đã lao động cần cù, chăm lo dẫn thủy nhập điền, sống cuộc sống kham khổ nhưng hòa thuận, đoàn kết, vui vẻ. Dần dần các lớp con cháu sinh sôi nảy nở, cuộc sống định cư ổn định, hình thành các làng, các thôn ở Ninh An ngày nay.
Nhân dân Ninh An có truyền thống cách mạng từ lâu đời. Trải qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người dân Ninh An một lòng đi theo Đảng. Nhiều người con kiên trung của Ninh An đã lên đường chiến đấu, góp phần giải phóng quê hương, đất nước. Thời kháng chiến chống Pháp, nhân dân đem của cải, tiền bạc, hoặc các dụng cụ bằng đồng như: chân đèn, mâm, thau, nồi đồng… ủng hộ cách mạng để đúc súng đạn chống lại giặc thù, tham gia tiếp tế lương thực thực phẩm cho cách mạng. Trong kháng chiến chống Mỹ, Ninh An là vùng vành đai vững chắc cho căn cứ địa Đá Bàn và các vùng cách mạng khác. Toàn xã có 215 liệt sĩ, 78 thương binh, 14 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng và 120 gia đình có công với cách mạng. Với những đóng góp đó, nhân dân và lực lượng vũ trang xã Ninh An đã được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang.
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng 30/4/1975, Ninh An là một xã nghèo, đại bộ phận nhân dân sống bằng nông nghiệp, sản xuất bấp bênh chỉ một vụ/năm, thu nhập thấp. Điều kiện cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng thấp. Việc đi lại giữa các thôn hết sức khó khăn. Vào mùa mưa có 5/8 thôn dân không thể đi lại được. Hệ thống phúc lợi không có, trường học và trạm y tế chỉ tạm bợ. Từ điểm xuất phát đó, Đảng bộ và nhân dân Ninh An đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, nhanh chóng ổn định và phát triển kinh tế-xã hội địa phương.
Dân số Ninh An có 3.134 hộ với 14.227 khẩu (Theo thống kê hộ nghèo và hộ cận nghèo tỉnh Khánh Hòa ngày 01/01/2011). Trong đó, có số lượng hộ nghèo là 220 hộ, chiếm tỷ lệ 6,93 %. Số nhân khẩu trong độ tuổi lao động là 8.142 người, chiếm 57,3% dân số toàn xã. Nhìn chung, lực lượng lao động dồi dào, có nhiều thuận lợi trong việc đáp ứng yêu cầu về lao động của địa phương. Lực lượng lao động tập trung nhiều nhất ở lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp (chiếm 80% lực lượng lao động của xã). Tuy nhiên, đa số là lao động nông nghiệp chưa được đào tạo, trình độ dân trí thấp nên việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi còn nhiều hạn chế.
Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
Kinh tế xã Ninh An hiện nay có cơ cấu các ngành: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: 11%; nông nghiệp: 81%; thương mại, dịch vụ: 8%.
Thế mạnh của Ninh An chủ yếu sản xuất nông nghiệp với lợi thế là đất rộng và màu mỡ rất tốt cho việc trồng lúa và các loại cây rau màu và chăn nuôi. Nhờ hệ thống công trình chứa nước Đập Đá Bàn nên sản xuất nông nghiệp của nhân dân trong xã được chủ động nguồn nước. Trước đây chỉ sản xuất một vụ và phụ thuộc vào “nước trời” thì nay đã sản xuất được từ 2 đến 3 vụ/năm. Sản lượng lương thực hàng năm cao nhất trong toàn thị xã Ninh Hòa. Trên địa bàn xã có 12 trại sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi với quy mô nhỏ, sử dụng lao động phổ thông tại chỗ. Có 13 doanh nghiệp đóng trên địa bàn chủ yếu là kinh doanh dịch vụ các mặt hàng nông sản thực phẩm, mây, tre, lá… với quy mô vừa và nhỏ.
Hệ thống giao thông nông thôn xã Ninh An có tổng chiều dài các tuyến đường là 87,84 km, Trong đó: đường trục xã, liên xã dài 14km đã được nhựa hóa, đường trục thôn, liên thôn dài 22,84km với 11 km đã được bê tông hóa, đường liên xóm dài 42,6km, đường giao thông trục chính nội đồng dài 8,4km.
Hiện nay, Ninh An đang đề ra mục tiêu xây dựng hệ thống giao thông hiện đại, chất lượng, bảo đảm thuận tiện cho việc đi lại và vận chuyển hàng hóa, tiêu thụ nông sản, góp phần giảm khoảng cách chênh lệch về kinh tế cũng như trình độ dân trí giữa nông thôn và thành thị. Việc kiên cố hóa đường giao thông nông thôn sẽ thúc đẩy kinh tế xã phát triển, tạo diện mạo mới cho nông thôn.
Hệ thống lưới điện để phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sinh hoạt của nhân dân cũng đã được ngành điện đầu tư trên địa bàn xã gồm có 23 trạm biến áp, hệ thống lưới điện hạ thế dài 40km. Hộ dân được sử dụng điện trực tiếp từ lưới điện quốc gia đạt 95%.
Hiện nay, xã có lợi thế là nằm trong quy hoạch khu kinh tế Vân Phong, với một số diện tích đất có thể xây dựng các cụm công nghiệp vừa và nhỏ sẽ chuyển dần lao động phục vụ cho các khu công nghiệp góp phần chuyển đổi cơ cấu, phát triển kinh tế địa phương. Xã đang tập trung đầu tư các công trình thuộc kết cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển chung của địa phương như: đầu tư quy hoạch, cải tạo, xây dựng mới hệ thống công sở, nhà sinh hoạt cộng đồng các thôn, đường sá, kênh mương… Ngoài ra, có nhiều công trình của Trung ương, của tỉnh, thị xã được xây dựng trên địa bàn của xã như: Ga Hòa Huỳnh, kho dự trữ Nam Trung bộ, Trạm thu phí đường bộ, Trạm cảnh sát giao thông, Nghĩa trang liệt sĩ, Chi nhánh Ngân hàng, Chi nhánh Bưu điện…đã góp phần làm cho diện mạo địa phương có nhiều đổi mới.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, trong những năm qua, xã Ninh An đã đầu tư thực hiện nhiều chương trình phát triển kinh tế xã hội như chương trình giao thông nông thôn, chương trình nước sạch, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình xóa nhà tranh tre dột nát. Các chương trình này đã góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn và đáp ứng nhu cầu thiết thực của nhân dân nên được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Lĩnh vực giáo dục, y tế cũng có những bước phát triển đáng khích lệ. Nhiều năm liền, xã đạt và giữ chuẩn quốc gia về phổ cập Trung học cơ sở và đang tiến đến đạt chuẩn về phổ cập trung học phổ thông. Trạm y tế đã được công nhận đạt chuẩn quốc gia, tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng hiện nay còn 6,1%, tiêm chủng mở rộng luôn đạt trên 95% ...Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững. Các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, phòng chống tội phạm được nhân dân thực hiện tích cực nên các tệ nạn xã hội từng bước được khống chế có hiệu quả, góp phần vào sự bình yên và phát triển của xã.
Về tôn giáo, tín ngưỡng
Ninh An có nhiều cơ sở tín ngưỡng lâu đời ở các thôn như: thôn Sơn Lộc có Đình Sơn Lộc được xây dựng trên 100 năm, Miễu Sơn Lộc được xây trên 60 năm; Đình Ngọc Sơn (thôn Ngọc Sơn) xây dựng từ năm 1880. Thôn Phú Gia có 3 cơ sở là Đình Phú Gia (xây dựng từ năm 1890), 2 Miễu Phú Gia (xây dựng năm 1895 và 1897). Thôn Hoà Thiện 1 có Đình Hòa Thiện 1 (xây dựng từ năm 1945) và Miễu Hòa Thiện 1 (xây dựng năm 1997). Thôn Hòa Thiện 2 có Đình Hòa Thiện 2 và Miễu Hòa Thiện 2 (xây dựng năm 1913). Thôn Ninh Ích có Đình làng Ninh Ích (xây dựng từ năm 1971) và Miễu Ninh Ích (xây dựng năm 1945).
Đình làng là nơi diễn ra những lễ hội, sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân và cũng là nơi nhân dân tưởng nhớ các bậc tiền hiền có công khai phá xây dựng quê hương. Đây là nét văn hóa truyền thống của người Việt Nam để khẳng định sự ổn định lâu dài ở các địa phương. Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, các đình làng cũng là nơi đặt cơ sở cách mạng. Nơi đây, các hoạt động tuyên truyền vận động dân ủng hộ và tham gia các hoạt động cách mạng được thực hiện thường xuyên.
Bên cạnh các cơ sở tín ngưỡng trên, trên địa bàn xã có 6 cơ sở Phật giáo với đông đảo tín đồ phật tử. Đó là chùa Viên Ngộ, chùa Phước Điền, chùa Phước Hòa, chùa An Lạc, chùa Lạc Sơn và chùa Kim Ấn. Ngoài ra, còn có một cơ sở của đạo Công giáo là Nhà thờ Hòa Thanh với 400 giáo dân. Hầu hết đồng bào có đạo đều chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Ngày nay, người dân Ninh An dù là lương hay giáo cũng đều yên tâm lao động sản xuất, tích cực thực hiện các hoạt động góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới địa phương Ninh An. Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, làng văn hóa được nhân dân tích cực thực hiện. Đến nay, có 8/8 thôn được công nhận làng văn hóa cấp huyện. Hàng năm, số hộ gia đình được công nhận Gia đình văn hóa luôn đạt trên 80% số gia đình toàn xã.
Sự gắn bó cộng đồng, truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột bởi kẻ thù xâm lược, chí khí vươn lên đấu tranh với thiên nhiên khắc nghiệt để tạo dựng cuộc sống ngày càng phát triển của người dân Ninh An đã làm cho địa phương ngày càng đi lên hòa cùng với sự phát triển chung của huyện, của tỉnh. Là địa phương có truyền thống cách mạng, giàu lòng yêu nước, cần cù trong lao động. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, Ninh An là địa bàn quan trọng cung cấp nguồn nhân lực, vật lực cho căn cứ cách mạng Đá Bàn. Trong thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới, hòa cùng với khí thế đổi mới của các địa phương trong toàn tỉnh, Ninh An cũng là một trong những địa phương đi đầu trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị và hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng hàng năm. Đảng bộ, chính quyền, luôn thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện tốt cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong toàn hệ thống chính trị ở địa phương, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân, phấn đấu xây dựng địa phương Ninh An ngày càng giàu mạnh, văn minh.